07/12/2022
juxtaposition.
phần 1: juxtaposition trên tầng mây xanh.
juxtaposition (n.): the fact of two things being seen or placed close together with contrasting effects (tạm dịch: sự kề nhau của hai điều đối lập).
sài gòn tháng 12, nắng đổ oà từ trên những tầng mây của tiết trời đông.
đèn thắt dây an toàn tắt, mẹ thúc con rời khỏi ghế ngồi, còn vội lấy hành lý từ ngăn kéo phía trên. mẹ muốn rời khỏi chiếc máy bay này, ở lâu chỉ khiến cơn ho của mẹ thêm dai dẳng.
con thì không, con muốn ngồi lại bên ô cửa sổ, dù gì chỗ này cũng là của chị gái ngồi với mẹ con ta nhường lại. nhờ cái chỗ đắc địa này, con được ngắm mây, ngắm mưa, ngắm cả vạt ruộng xanh bạt ngàn bên dưới đôi cánh dang rộng của "con chim sắt" - cách mẹ mô tả máy bay với đứa trẻ ba tuổi là con.
trên mình của "con chim sắt", có những tám mươi ô cửa sổ.
ngay khi máy bay chưa cất cánh khỏi phú bài, đôi mắt con đã dán chặt vào những giọt mưa bám trên ô cửa. mẹ biết không, những giọt mưa đó rơi dọc xuống, vì trọng lực, vì sức nặng của chính chúng đó mẹ (đúng là không hổ danh đứa con trai từng mơ đến chuyện làm việc ở nasa của mẹ).
nhưng khi máy bay lăn bánh hết tốc lực của mình, phóng thẳng qua những tầng mây, chúng lại trôi ngang theo những cơn gió lạ mà mẹ con mình còn chẳng thể cảm nhận được; mình đang ngồi bên trong bụng của "con chim sắt" mà mẹ!
giữa ghế con và ghế mẹ, cũng là một cửa sổ.
tuần trước, mẹ nước mắt giàn giụa hỏi con, "con là ai?". con không nghĩ là mẹ biết, biết về những cơn mưa trong con. ô cửa sổ máy bay trong veo, còn ô cửa giữa mẹ con ta thì không. vậy khi cánh cửa phòng con đóng lại, làm sao mẹ nhìn thấu được con, để thấy mưa trong con trôi theo phương nào? mẹ những tưởng mưa trong con rơi dọc xuống, vì trọng lực, vì sức nặng của chính những tham vọng con mang mà con thường kể mẹ nghe. nhưng mẹ à, những cơn gió lạ đã mang đứa con mà mẹ biết, mẹ hiểu đi xa vào dĩ vãng. thứ chúng để lại, duy chỉ là con - mưa trôi ngang, không còn là con - mưa rơi dọc.
thứ duy nhất mẹ còn biết về con, có chăng là mặt trời trong con, thứ mà mẹ chỉ được thấy sau những cơn mưa. nhưng trời đâu thể nắng hoài, và khi trời mưa, mặt trời đâu để mẹ con ta nhìn thấu nhau?
phép juxtaposition là mẹ con ta.
"con chim sắt" vươn mình giữa những mảnh bông xốp trắng xoá, con lại đắm mình trong những trang sách. mẹ biết không, ocean vương và mẹ ổng giống mẹ con mình lắm đó; con định kể mẹ rồi, chỉ là con không nghĩ mẹ biết ông là ai.
rồi con nghe podcast, nghe người ta nói về true love. người ta bảo, true love sẽ đến khi con ít sẵn sàng nhất.
mẹ vẫn đánh giấc, với cục keo ho ngậm trong miệng đang dần chảy ra, với chiếc áo phao kéo tới sát cổ.
con thầm nghĩ, mẹ con mình là một phép juxtaposition. true love không đến với mẹ khi mẹ ít sẵn sàng nhất; chiến tranh đốt trụi những trang sách mẹ đọc. một người phụ nữ bị thời thế cướp đoạt tình yêu lại đang ngồi cạnh một đứa trẻ mơ về true love hằng giờ. một người phụ nữ không biết nỗi một chữ tiếng anh trong trang sách con trai mình đọc lại đang ngồi cạnh một đứa trẻ coi thứ tiếng đó là tiếng mẹ đẻ, dù trớ trêu là mẹ nó chỉ biết mỗi tiếng việt.
một người phụ nữ bị thời thế cướp mất giấc mơ và cả đứa con trai đáng ngưỡng mộ lại đang ngồi cạnh một đứa trẻ mà mỗi đêm chỉ mong cầu được nhận lại những gì đã vụt khỏi tay của mẹ nó. trớ trêu thật, mẹ nhỉ?
con tìm thấy hạnh phúc, trong hình hài của những trang sách ocean vương viết và những mỹ từ về true love mà thầy minh niệm nói.
mẹ tìm thấy hạnh phúc, trong hình hài của viên kẹo ho ngọt gắt đang tan dần trong cổ và chiếc áo phao vài trăm xu mua được ở hàng đồ bành.
hạnh phúc của mẹ và con đều đẹp, phải không mẹ? mẹ con ta ngồi đó, hạnh phúc (bên cạnh nhau) theo những cách đối lập.
trên những tầng mây xanh, trong bụng của con chim sắt, hàng ngàn dặm bên trên mặt đất, mẹ con ta vẫn kề nhau - phép juxtaposition đẹp đẽ nhất trên đời.